Thủy lợi nhỏ là gì? Các công bố khoa học về Thủy lợi nhỏ

Thủy lợi nhỏ là một hệ thống nhỏ các công trình về thủy lợi được xây dựng để cung cấp nước cho các vùng trồng trọt nhỏ, thường là vùng nông thôn. Hệ thống thủy ...

Thủy lợi nhỏ là một hệ thống nhỏ các công trình về thủy lợi được xây dựng để cung cấp nước cho các vùng trồng trọt nhỏ, thường là vùng nông thôn. Hệ thống thủy lợi nhỏ bao gồm các kênh, ao, hồ chứa nước và đường ống dẫn nước để điều tiết và phân phối nước cho các vùng đất nông nghiệp. Thủy lợi nhỏ giúp đảm bảo cung cấp nước cho các vụ mùa, tăng năng suất cây trồng và phòng chống hạn hán và lũ lụt.
Thủy lợi nhỏ là một hệ thống quản lý nước nhỏ gọn được xây dựng tại các vùng nông thôn nhằm cung cấp nước tưới cho đất nông nghiệp và đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt của các hộ gia đình. Hệ thống này thường được xây dựng bằng cách chia nhỏ lưu vực sông, khe chứa nước từ nguồn nước mưa, sông, suối hoặc hồ, sau đó hướng dẫn dòng nước qua các kênh và ống dẫn nước đến các đồng ruộng hoặc ao nuôi cá.

Các thành phần chính của hệ thống thủy lợi nhỏ bao gồm:

1. Bể chứa nước: Đóng vai trò là nơi lưu trữ và cung cấp nước trong quá trình trồng trọt và sinh hoạt. Bể chứa có thể là ao, hồ hoặc bể chứa nước.

2. Kênh dẫn nước: Là con đường dẫn dòng nước từ nguồn nước đến các khu vực trồng trọt. Kênh có thể được tạo từ đất đào cạn, bê tông hoặc ống đường kính nhỏ.

3. Bảo vệ bờ ruộng: Được xây dựng để ngăn chặn sự tràn lan của nước và bảo vệ ruộng khỏi sự ăn mòn bờ ruộng.

4. Cống thoát nước: Được dùng để điều tiết mực nước và thoát nước dư ra khỏi hệ thống, đảm bảo cân bằng lượng nước trong quá trình trồng trọt.

Thủy lợi nhỏ giúp cải thiện khả năng quản lý nước tại các vùng nông thôn nhỏ, tăng cường khả năng tự cung cấp nước cho nông sản, giảm thiểu thiệt hại do hạn hán và lũ lụt, đồng thời cung cấp nguồn nước sạch cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng.
Thủy lợi nhỏ còn được gọi là hệ thống tưới tiểu, là một hệ thống nhỏ gọn và đơn giản được xây dựng để cung cấp nước cho các vùng đất nông nghiệp nhỏ và hộ gia đình. Hệ thống thủy lợi nhỏ thường bao gồm các thành phần sau:

1. Hồ chứa nước: Đây là nơi lưu trữ và tích trữ nước từ các nguồn mưa, suối, sông hoặc giếng khoan. Hồ chứa có thể là ao, hồ nhỏ hoặc bể chứa nước. Nước được lưu trữ trong hồ chứa để cung cấp cho quá trình tưới tiêu và sinh hoạt.

2. Mạng lưới kênh dẫn nước: Nước từ hồ chứa được dẫn đi qua một mạng lưới các kênh nhỏ và ống dẫn nước đến các vùng đất trồng trọt. Các kênh có thể là do mà người dân đào hoặc xây dựng bằng bê tông. Ống dẫn nước có thể được sử dụng để dẫn nước từ hồ chứa đến các khu vực xa hơn.

3. Khu vực tưới tiêu: Nước từ mạng lưới kênh được điều tiết và phân phối đến các khu vực trồng trọt thông qua hệ thống van, xả nước hoặc hệ thống tưới nhỏ giọt. Điều này giúp đảm bảo rằng cây trồng được cung cấp đúng lượng nước cần thiết.

4. Các công trình phụ trợ: Ngoài các thành phần chính, hệ thống thủy lợi nhỏ cũng có thể bao gồm các công trình phụ trợ như bảo vệ bờ ruộng hoặc lưới chắn gương mặt nước để ngăn chặn sự ăn mòn bờ ruộng và giữ nước trong hồ chứa.

Thủy lợi nhỏ giúp nâng cao năng suất nông nghiệp, giảm thiểu thiệt hại do thiếu nước và đảm bảo cung cấp nước tưới đều đặn cho cây trồng. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực và phát triển bền vững trong nông thôn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thủy lợi nhỏ":

Thực trạng sử dụng nguồn kinh phí thủy lợi phí cấp bù trực tiếp cho các tổ chức thủy lợi cơ sở quản lý khai thác công trình thủy lợi nhỏ, nội đồng theo phân cấp
Bài báo này, trên cơ sở phân tích kết quả điều tra, trình bày nguồn thu, bao gồm nguồn hỗ trợ kinh phí sử dụng dịch vụ công ích và nguồn thu phí nội đồng và mức chi QLVH của các tổ chức thủy lợi cơ sở. Tùy thuộc vào quy mô diện tích, kinh phí cấp bù có giá trị từ 180 tr.đồng đến 130 tr.đồng cho một tổ chức TLCS đối với vùng Miền núi và Tây Nguyên; từ 560 tr đến 300 tr đồng đối với vùng Đồng Bằng Sông Hồng và các tỉnh Duyên hải miền trung. Nguồn kinh phí này chủ yếu chi cho 2 khoản quản lý vận hành, từ 20-60%, và bảo trì công trình. Tại vùng Đông Nam bộ và một số tỉnh Vùng Nam Trung bộ, như Ninh Thuận, Bình Thuận, hầu hết các tổ chức thủy lợi cơ sở không quản lý công trình độc lập hoặc không quản lý công trình vượt quy mô cống đầu kênh nên không được hưởng thủy lợi phí cấp bù. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long kinh phí cấp bù thủy lợi phí chuyển cho UBND các huyện thực hiện duy tu, nạo vét các công trình thủy lợi trong huyện có giá trị bình quân 17.124 tr. đ/huyện. Mức thu phí nội đồng tại các tổ chức thủy lợi cơ sở tại vùng đồng bằng sông Cửu long vào khoảng 800.000-1.500.000 đ/ha.vụ. Đối với các vùng còn lại trong cả nước dao động từ 200.000 đ/ha.vụ ở vùng miền núi đến 600.000 đ/ha.vụ vùng đồng bằng. Toàn bộ khoản thu thủy lợi phí nội đồng này được sử dụng cho công tác quản lý vận hành công trình thủy lợi nội đồng. Tỷ lệ thủy lợi phí nội đồng thu đạt xấp xỉ 100% đối với vùng trung và hạ du đồng bằng sông Hồng, vùng Đồng Băng Sông Cửu Long. Tại các vùng còn lại tỷ lệ thu đạt giao động 80-90%.
#thủy lợi phí #thủy lợi cơ sở
Dược lý học lâm sàng của cytarabine ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu myeloid cấp tính: một nghiên cứu của Nhóm Nghiên cứu Ung thư và Bạch cầu Dịch bởi AI
Cancer Chemotherapy and Pharmacology - Tập 36 - Trang 425-430 - 1995
Dược động học của cytarabine (ara-C) đã được xác định ở 265 bệnh nhân mắc bạch cầu myeloid cấp tính (AML) nhận ara-C (200 mg/m2 mỗi ngày trong 7 ngày dưới dạng truyền liên tục) và daunorubicin trong liệu pháp khởi đầu. Nồng độ ara-C tại trạng thái ổn định trung bình (độ lệch chuẩn) (Css) và độ thanh thải toàn thân (Cl) lần lượt là 0.30 (0.13) μM và 134 (71) l/h trên m2. Nam giới có độ thanh thải ara-C nhanh hơn đáng kể (139 so với 131 l/h trên m2, P=0.025) so với nữ giới. Những mối tương quan đáng kể được ghi nhận giữa Cl của ara-C và số lượng tế bào bạch cầu ngoại vi trước điều trị (P=0.005) và số lượng tế bào blast trước điều trị (P=0.020). Không có sự khác biệt đáng kể nào về Css hoặc Cl của ara-C ở những bệnh nhân đạt được thuyên giảm hoàn toàn so với những người không đáp ứng (P=0.315, P=0.344, tương ứng). Các thông số dược động học của ara-C không có mối tương quan đáng kể với một số chỉ số độc tính ở bệnh nhân. Những phát hiện của chúng tôi cho thấy sự biến thiên trong sự phân bố ara-C trong huyết tương ở mức liều này không tương quan với tình trạng thuyên giảm hoặc độc tính ở bệnh nhân mắc AML nhận liệu pháp khởi đầu với ara-C và daunorubicin.
#Cytarabine #bạch cầu myeloid cấp tính #dược động học #độc tính #thuyên giảm
Giải pháp công trình thủy lợi nhỏ về thu trữ nước nhằm ứng phó hạn hạn cho nông nghiệp khu vực Tây Nguyên
Trong những năm gần đây tình trạng hạn hán và thiếu nước về mùa khô ở Tây Nguyên ngày càng trầm trọng. Bài báo nêu lên thực trạng sử dụng nước và đưa ra các giải pháp phát triển công nghệ thủy lợi nhỏ về thu, trữ nước mặt nhằm tạo nguồn cấp nước tưới cho những vùng thường xuyên bị thiếu nước, hạn hán phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực Tây Nguyên.
Ứng dụng ảnh viễn thám planet phục vụ công tác quan trắc hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ: Application of Planet satellite imagery for monitoring medium-scale and small-scale reservoirs
Nghiên cứu sử dụng ảnh viễn thám có độ phân giải cao để trích xuất số liệu phục vụ cho quan trắc hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ tại Việt Nam. Trong nghiên cứu này tác giả đưa ra những ưu điểm của ảnh Planet trong tính toán mặt nước cũng như đề xuất ngưỡng giá trị NDWI khi dùng ảnh vệ tinh Planet tính toán mặt nước của hồ Sông Tranh. Qua đó đặt ra mối liên hệ cho việc áp dụng tương tự tại các hồ chứa vừa và nhỏ (ví dụ Đầm Thìn). Việc dùng ảnh vệ tinh độ phân giải cao, miễn phí để lập số liệu quan trắc trong đánh giá an toàn hồ đập là một hướng đi mới nhưng hoàn toàn có căn cứ và có thể áp dụng được. Việc ứng dụng này chỉ là bước đầu trong quá trình hoàn thiện các thông số quan trắc hồ chứa vừa và nhỏ, nhưng sẽ rất cần thiết trong điều kiện không đủ số liệu quan trắc theo thời gian. Abstract The study uses high-resolution remote sensing images to extract data for monitoring small and medium-sized reservoirs in our country. Within this study, the advantages of using Planet’s high-resolution satellite image in water surface calculation, as well as praa have been mentioned. Thereby making a connection to similar applications for small and medium reservoirs (e.g., Dam Thin reservoir). The use of free, high-resolution satellite images to establish monitoring data in the dam safety assessment is a new direction, but completely grounded and applicable. This application is only the first step in the process of collecting the monitoring parameters for small and medium-sized reservoirs, but at the same time, it is very necessary for the condition of insufficient monitoring data over time.
#quan trắc hồ chứa #hồ vừa và nhỏ #Planet’s image collection #Google Earth Engine #reservoir monitoring #small and medium reservoirs #remote sensing #GEE
TSD và mã hóa trong bộ nhớ ngắn hạn (STM) Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 21 - Trang 231-232 - 2013
Các đối tượng tham gia nghiên cứu được yêu cầu lắng nghe một danh sách từ và xác định các từ được lặp lại khi nghe. Xen kẽ với các từ lặp lại là các từ có liên quan theo liên tưởng hoặc âm thanh với các từ lặp lại. Các lỗi xâm nhập đã được phân tích và sự khác biệt giữa các loại từ được tìm thấy là hết sức đáng kể; việc áp dụng lý thuyết phát hiện tín hiệu đã cung cấp một phương tiện để định lượng sự khác biệt này.
#bộ nhớ ngắn hạn #lý thuyết phát hiện tín hiệu #lỗi xâm nhập #liên tưởng #âm thanh
Đánh giá triển khai chính sách phát triển thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khi chuyển đổi từ lúa sang cây ăn trái và cây màu
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm có điều kiện tự nhiên, khí hậu và tài nguyên để phát triển nông nghiệp dựa trên 3 trụ cột chính lúa gạo, trái cây và thủy sản. Theo định hướng phát triển nông nghiệp của vùng trong giai đoạn tới phát triển nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu đồng thời gia tăng giá trị từ sản xuất nông nghiệp, giảm chi phí sản xuất và nâng cao thu nhập của người dân. Qua khảo sát 6 tỉnh nhiều hộ nông dân chuyển cơ cấu cây trồng từ lúa sang cây màu và cây ăn trái, dần hình hành các khu vực chuyển đổi tập trung. Khi chuyển đổi cơ cấu cây trồng các giải pháp phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến tiết kiệm nước đã được áp dụng. Đặc biệt khi chuyển đổi sang cây ăn quả, nhiều hộ nông dân đã đầu tư hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước để tưới. Hiện nay, có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước. Tuy nhiên, việc song hành nhiều chính sách hỗ trợ và chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới và các dự án trong khi các tỉnh chưa có kế hoạch phát triển thủy lợi nội đồng, thủy lợi nhỏ và tưới tiên tiến tiết kiệm nước nên gặp nhiều khó khăn. Trong bài báo này, các tác giả dựa trên thực trạng triển khai chính sách hỗ trợ từ đó đề xuất một số giải pháp để tháo gỡ trong giai đoạn tới.
#Thủy lợi nội đồng #thủy lợi nhỏ #tưới tiên tiến #tiết kiệm nước #chính sách hỗ trợ #chuyển đổi đất lúa #đồng bằng sông Cửu Long
Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức quản lý nước mặt ruộng thuộc hệ thống thủy lợi sông Nhuệ, sông Đáy
Hiện nay, tổ chức thủy lợi cơ sở thuộc vùng hệ thống thủy lợi sông Nhuệ, sông Đáy đều là các Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN). Các HTX được thành lập từ lâu và cơ bản đã được chuyển đổi theo Luật HTX kiểu mới. Sau khi công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng được bàn giao cho Công ty quản lý, đến nay đã được phân cấp lại cho các tổ chức TLCS. Các tổ chức TLCS với nguồn thu hạn hẹp, không đủ chi, công trình hư hỏng, thủy nông viên thiếu động lực làm việc, tổ chức TLCS chưa thực sự hoạt động hiệu quả. Để đáp ứng tinh thần của Luật Thủy lợi, việc củng cố tổ chức TLCS cần có kế hoạch, lộ trình phù hợp nhằm nâng cao năng lực, nhận thức của các hộ sử dụng nước. Bài báo này, trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của các tổ chức thủy lợi cơ sở, triên khai văn bản chính sách của địa phương để đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức quản lý nước mặt ruộng thuộc hệ thống thủy lợi sông Nhuệ, sông Đáy
#Tổ chức thủy lợi cơ sở #Hợp tác xã #thủy lợi nhỏ #thủy lợi nội đồng
Nghiên cứu đề xuất mô hình, cơ chế hoạt động của tổ chức thủy lợi cơ sở
Hiện nay, tổ chức thủy lợi cơ sở tồn tại 6 loại hình chính. Đa phần tổ chức thủy lợi cơ sở (TLCS) được thành lập chưa mang tính chủ động, thiếu sự tự nguyện tham gia của người sử dụng dịch vụ. Với nguồn thu hạn hẹp, không đủ chi, công trình xuống cấp, lãng phí nước, thủy nông viên thiếu động lực làm việc, tổ chức TLCS chưa thực sự hoạt động hiệu quả. Để đáp ứng tinh thần của Luật Thủy lợi, việc thành lập tổ chức TLCS cần được phân đoạn, có lộ trình phù hợp với đặc điểm vùng miền. Đối với những vùng như Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền trung, Đông nam Bộ, Tây Nguyên và TDMN phía bắc, tổ chức TLCS được Nhà nước hỗ trợ kinh phí sử dụng dịch vụ công ích thủy lợi, toàn bộ hộ sử dụng nước phải tham gia vào tổ chức TLCS dưới hình thức được củng cố, thành lập mới HTX/THT. Đối với vùng ĐBSCL, Nhà nước không hỗ trợ trực tiếp các tổ chức TLCS, kinh phí sử dụng dịch vụ công ích thủy lợi thì cần tuyên truyền khuyến khích người dân thành lập tổ chức TLCS để lực chọn lại tổ chức/cá nhân cung cấp dịch vụ. Vùng cao (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lao Cai, Điện Biên, Lạng Sơn, Lai Châu,..) trước mắt chuyển đổi MH Ban/Tổ quản lý thủy nông do UBND xã thành lập/kiêm nhiệm thành mô hình THT, khi nào đủ điều kiện sẽ chuyển thành HTX hoặc huyện/xã tổ chức đặt hàng/đấu thầu dịch vụ với doanh nghiệp khai thác CTTL.
#mô hình quản lý #Hợp tác xã #Tổ hợp tác #thủy lợi cơ sở #thủy lợi nhỏ #thủy lợi nội đồng #Ban quản lý thủy lợi
Tổng số: 8   
  • 1